Ngày 11/9/2019, Thời báo Giáo dục đại học (Times Higher Education, THE) công bố kết quả xếp hạng đại học thế giới mới nhất (World University Rankings 2020) trong sự kiện Hội nghị Thượng đỉnh về học thuật của THE tổ chức tại Zurich (Thụy Sỹ). Theo đó, Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) thuộc nhóm 801 – 1000 Thế giới.
(Nguồn: Times Higher Education)
ĐHQGHN và 02 cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam được THE công bố thứ hạng cùng với gần 1.400 cơ sở giáo dục đại học hàng đầu thế giới. Trong đó, ĐHQGHN cùng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội thuộc nhóm 801-1000 thế giới; tiếp theo là Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trong nhóm 1000+.
Trong số 3 cơ sở giáo dục đại học được xếp hạng, ĐHQGHN đứng đầu về các chỉ số giảng dạy, nghiên cứu khoa học, và hội nhập quốc tế.
(Nguồn: Times Higher Education)
Xếp hạng thế giới của THE dựa trên 5 nhóm tiêu chí như sau:
1) Giảng dạy (Môi trường học tập) với trọng số điểm xếp hạng là 30% và 5 tiêu chí xếp hạng, bao gồm: kết quả khảo sát về uy tín giảng dạy (15%), tỷ lệ giảng viên/sinh viên (4,5%), tỷ lệ học viên nghiên cứu sinh/sinh viên đại học (2,25%), tỷ lệ giảng viên là tiến sỹ (6%), và thu nhập của đơn vị (2,25%). Thu nhập của trường đại học được THE tính thông qua chỉ số sức mua tương đương, phản ánh mức độ đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị cho hoạt động dạy và học ở trường đại học.
2) Nghiên cứu (số lượng; thu nhập; uy tín) với trọng số 30%, bao gồm: kết quả khảo sát về uy tín nghiên cứu khoa học (18%), thu nhập từ nghiên cứu (6%), và năng suất nghiên cứu (6%);
3) Trích dẫn (số trích dẫn quốc tế trung bình của một công trình của trường đại học) với trọng số 30%. Dữ liệu được tính thông qua 23,400 tạp chí khoa học thuộc cơ sở dữ liêu Scopus trong giai đoạn từ 2014 đến 2018. Lượng trích dẫn được tính cho các ấn phẩm này trong giai đoạn từ 2014 đến 2019. Đã có 12,8 triệu công bố và 77,4 triệu trích dẫn được tính toán.
4) Quốc tế hóa (về cán bộ, sinh viên, nghiên cứu) với trọng số 7,5%, bao gồm: tỷ lệ giảng viên quốc tế (2,5%), tỷ lệ sinh viên quốc tế (2,5%), và chỉ số hợp tác quốc tế (2,5%, thông qua số công bố khoa học có ít nhất 1 đồng tác giả là học giả quốc tế);
5) Thu nhập từ doanh nghiệp (chuyển giao tri thức) với trọng số 2,5% tính thông qua tổng thu nhập từ chuyển giao công nghệ và tri thức cho doanh nghiệp.
Ngoài việc lọt vào nhóm 801-1000 thuộc Bảng xếp hạng đại học thế giới của THE, Đại học Quốc gia Hà Nội còn nằm trong nhóm 801-1000 thuộc Bảng xếp hạng đại học thế giới của QS, đứng thứ 124 trong Bảng xếp hạng đại học châu Á của QS. Tại Bảng xếp hạng Webometrics (về xây dựng đại học số hóa), ĐHQGHN cũng tiếp cận top 1000 thế giới và đứng đầu trong các cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam. ĐHQGHN cũng có nhiều ngành đào tạo thuộc top 1000 thế giới thuộc bảng xếp hạng QS như: nhóm ngành vật lý và thiên văn học thuộc nhóm 501 – 550 thế giới (đứng đầu ở Việt Nam); nhóm ngành kỹ thuật cơ khí, hàng không và chế tạo đứng thứ 451-500, và nhóm ngành khoa học máy tính và hệ thống thông tin đứng thứ 551-600. Riêng đối với lĩnh vực Vật lý, ĐHQGHN là cơ sở đại học duy nhất ở Việt Nam được US NEWS xếp hạng và đứng thứ 502 thế giới.
(Theo VNU)